Từ những năm 1904 - 1905, các hoạt động của Duy Tân hội và phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng tạo được ảnh hưởng khá sâu rộng ở Nam Kỳ, trong đó có hai tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một. Tiếp đó, những hoạt động sôi nổi của phong trào Duy Tân Trung Kỳ với chủ trương “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” cũng tác động tích cực đến một bộ phận trí thức và nhân dân tại địa phương. Tuy nhiên, dấu ấn của Duy Tân hội và phong trào Đông Du chỉ tập trung chủ yếu ở tỉnh lỵ và các vùng thị tứ, mà chưa đến được với vùng rừng núi phía bắc hai tỉnh.
Trong khi đó, ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, chính sách cướp đoạt đất đai và phá rừng để lập đồn điền mà thực dân Pháp ráo riết tiến hành đã làm bùng lên mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Đồng bào Xtiêng ở các sóc Pau Tao, Bù Đốp, Bù Xavơr, Bù Đrimăng, Bù Talớt, Bù Lơnhe, Bù Nho… (là phần đất thuộc các huyện Lộc Ninh, Bình Long, Phước Long hiện nay) buộc phải rời bỏ buôn, sóc nương rẫy của mình, dạt vào rừng sâu sinh sống; để tư bản Pháp lập các đồn điền Lộc Ninh, Đắk Kia, Phú Riềng, Xa Cam, Xa Cát… Quyền lợi thiết thân bị cướp đoạt, những tập quán truyền thống bị xáo trộn bởi sự có mặt của bộ máy cai trị thực dân đã thôi thúc ý thức đấu tranh trong đông đảo đồng bào.
Năm 1908, thủ lĩnh nghĩa quân Điểu Dố (người dân tộc Xtiêng ở sóc Thủ Bổn, Xa Trạch, Hớn Quản) tập hợp lực lượng đứng lên chống Pháp. Tham gia cuộc khởi nghĩa do Điểu Dố lãnh đạo có hàng trăm thanh niên và đồng bào các dân tộc Xtiêng, Chơ Ro, Tà Mun, Mnông ở Hớn Quản và một số vùng lân cận. Chỉ bằng vũ khí thô sơ (giáo mác, cung tên, cây rừng vạt nhọn…), nhưng với tinh thần chiến đấu quả cảm, nghĩa quân Điểu Dố liên tục tổ chức đánh Pháp, gây cho giặc nhiều thiệt hại. Từ căn cứ đặt tại Núi Gió (Quản Lợi), nghĩa quân tấn công các bót Hớn Quản, Bù Đốp và nhiều nơi khác, buộc địch phải căng kéo quân đối phó. Tận dụng địa hình, địa vật quen thuộc, lại được sự ủng hộ của nhân dân, cuộc khởi nghĩa kéo dài suốt 10 năm. Đến năm 1918, do Pháp tăng cường lực lượng bao vây trấn áp, nghĩa quân phải rút về khu Ngã ba Nhà Mát (nay thuộc xã Long Nguyên, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương); và trong một trận chiến đấu tại đây, Điểu Dố bị trúng đạn, hy sinh anh dũng.
Mặc dù không còn thủ lĩnh, nghĩa quân vẫn tiếp tục duy trì các hoạt động kháng chiến suốt từ năm 1919 đến năm 1923, có lúc mở rộng địa bàn sang bên kia biên giới Campuchia (vùng Srey Khtum và Srey Chia). Cuộc khởi nghĩa của Điểu Dố và nghĩa quân thể hiện tinh thần chiến đấu bền bỉ, kiên cường, bồi đắp truyền thống đấu tranh bất khuất của đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Bình Phước ngày nay.
Bốn năm sau ngày cuộc khởi nghĩa do Điểu Dố lãnh đạo nổ ra, người dân Bình Phước lại có mặt trong một cuộc khởi nghĩa có quy mô và tầm vóc lớn hơn, gây cho bộ máy cai trị thực dân nhiều nỗi kinh hoàng. Đó là cuộc khởi nghĩa của N’Trang Lơng (người dân tộc Mnông), kéo dài hơn 20 năm (từ năm 1912 đến năm 1935).
Hình ảnh khắc họa hoạt động của nghĩa quân trong cuộc chiến chống quân xâm lược. Ảnh Châu Trúc
Mùa khô 1914-1915, thực dân Pháp mở đợt hành quân càn quét từ tây xuống đông cao nguyên Mnông, một mặt để tìm diệt N’Trang Lơng và nghĩa quân; mặt khác nhằm thăm dò khả năng thiết lập lại bộ máy cai trị. Biết được điều này, nghĩa quân N’Trang Lơng bí mật theo dõi, bám sát địch. Sáng sớm ngày 15-1-1915, khi quân địch đang dừng chân tại một khe núi thuộc làng Bu Tiên, nghĩa quân từ các phía men theo sườn núi tập kích địch, giết chết Công sứ Trouffo và Thiếu úy Margant, tiêu diệt toàn bộ quân địch, tịch thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Mặc dù sau đó thực dân Pháp tăng cường lực lượng truy lùng N’Trang Lơng và nghĩa quân, buộc bộ chỉ huy khởi nghĩa phải chuyển sang khu vực phía tây Di Linh (nay thuộc tỉnh Lâm Đồng), nhưng cuộc khởi nghĩa N’Trang Lơng vẫn ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp trên vùng cao nguyên Nam Đông Dương. Trong những năm từ 1915 đến 1925, một phụ tá của N’Trang Lơng là Bu Luk-Amprak (chủ làng người Mnông ở lưu vực sông Đắk Huýt) trở thành người lãnh đạo phong trào chống thực dân Pháp của đồng bào Xtiêng, Mnông trên địa bàn tỉnh Bình Phước ngày nay, mạnh nhất là ở khu vực xung quanh núi Bà Rá.
Từ năm 1925, thực dân Pháp dùng lực lượng quân sự lớn do thiếu tá Carrier chỉ huy tiến hành càn quét vùng Bà Rá, vừa nhằm dập tắt phong trào kháng chiến, vừa để mở con đường thuộc địa 14, nối từ Sài Gòn đến cao nguyên và miền duyên hải Trung kỳ. Trong hai mùa khô 1925-1926 và 1926-1927, những cuộc càn quét liên tục của quân Pháp làm xáo trộn cuộc sống của cư dân tại địa phương, nhà cửa và nương rẫy bị phá, nhiều thanh niên bị bắt đi làm lao dịch… Bất bình và căm phẫn trước hành động của giặc, đồng bào Xtiêng lại nổi dậy dưới sự chỉ huy của R’Đing. Chiến công tiêu biểu là trận phục kích tiêu diệt tên Gatille - phụ trách đại lý Snuol, kiêm chỉ huy trưởng công trường làm đường 14 - vào tháng 1-1931.
Hòa cùng phong trào yêu nước của nhân dân địa phương, phong trào đấu tranh của công nhân cao su trên địa bàn tỉnh Bình Phước cũng diễn ra liên tục, mạnh mẽ, từ “tự phát” phát triển lên “tự giác”, gắn liền với quá trình tuyên truyền tư tưởng cách mạng vô sản vào phong trào công nhân do Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên tiến hành.
Trong những năm 1928-1929, dưới tác động của phong trào “vô sản hóa” thông qua vai trò tích cực của các hội viên Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên ở các tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hòa, chủ nghĩa Mác-Lênin đã từng bước thâm nhập ngày càng sâu rộng vào quần chúng nhân dân, trước hết là đội ngũ công nhân công – tra đang rên xiết dưới chế độ bóc lột hà khắc của giới chủ đồn điền.
Từ tháng 8 đến tháng 10-1929, dưới sự lãnh đạo của chi bộ, công nhân đồn điền cao su Phú Riềng đã ba lần nổi dậy đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống đánh đập, đòi cải thiện điều kiện làm việc…, trong đó có cuộc bãi công lớn (tháng 10-1929) quy tụ khoảng 2.000 công nhân tham gia. Đại diện công nhân đưa ra các yêu sách đòi chủ đồn điền Soumagnac phải tăng lương, cải thiện tình hình ăn ở, đòi nữ công nhân nghỉ sinh con được hưởng lương, chống đánh đập, không ăn gạo mục, gạo ẩm… Ban đầu, chủ đồn điền không chịu đáp ứng các yêu sách và đưa lính đến đàn áp, bắt bớ những người tham gia tranh đấu. Nhưng trước sức mạnh và sự kiên trì đấu tranh của quần chúng, cuối cùng Soumagnac buộc phải hứa giải quyết các yêu cầu chính đáng của công nhân.
Cuối năm 1929, tổ chức Công hội đỏ Phú Riềng ra đời, kết nạp những công nhân ưu tú để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ hạt nhân nòng cốt trong phong trào công nhân. Đây là một trong hai tổ chức Công hội đỏ của Xứ ủy Nam kỳ Đông Dương Cộng sản Đảng. Công hội đỏ Phú Riềng ra tờ báo Giải thoát - tờ báo cách mạng đầu tiên của ngành cao su Việt Nam, có sức truyền tải và giác ngộ lý tưởng cộng sản rất lớn trong đội ngũ công nhân cao su Phú Riềng nói riêng và miền Đông Nam Kỳ nói chung.
Như vậy, trong 30 năm đầu thế kỷ XX, tiếp nối truyền thống yêu nước của dân tộc, người dân Bình Phước gồm nhiều tộc người khác nhau, nhiều thành phần xã hội khác nhau đã chung sức, chung lòng siết chặt hàng ngũ đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Từ những hoạt động yêu nước ban đầu còn lẻ tẻ, có quy mô nhỏ, phong trào chống thực dân Pháp của nhân dân Bình Phước dần dần phát triển mạnh mẽ, có tổ chức chặt chẽ, quy tụ lực lượng ngày càng đông đảo, lập nên nhiều chiến công oanh liệt. Đặc biệt, từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước tại địa phương, những hoạt động đấu tranh cách mạng trên địa bàn Bình Phước càng diễn ra sôi nổi và hiệu quả./.