Bình Phước là tỉnh thuộc khu vực miền Đông Nam bộ, có diện tích tự nhiên 6.873,56 km2, với thế mạnh đất nông nghiệp chiếm trên 64% diện tích cả tỉnh, giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp và thủy sản chiếm hơn 23% cơ cấu kinh tế, Bình Phước là tỉnh có lợi thế phát triển nông nghiệp. Để phát triển ngành hiệu quả, thời gian qua, tỉnh luôn đặt mục tiêu hướng đến trở thành một trong những địa phương tiên phong về phát triển nông nghiệp sạch, hữu cơ, tuần hoàn, xanh, thân thiện, thích ứng với môi trường; phát triển nông nghiệp dựa trên việc ứng dụng khoa học – công nghệ, chuyển đổi số trong tất cả các khâu của sản xuất nông nghiệp và khẳng định vị thế quan trọng, là trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực.
Thu hoạch dưa lưới tại Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân tỉnh Bình Phước
Trong những năm qua, thực hiện các nghị quyết, kết luận của Đảng về xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, với sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền các cấp, sự vào cuộc của cộng đồng doanh nghiệp, chung sức, đồng lòng của Nhân dân, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất trung bình đại 5,6%/năm; sản xuất kinh doanh nông nghiệp tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, ứng dụng khoa học - công nghệ, nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng, phát huy lợi thế vùng, miền, địa phương, thích ứng với biến đổi khí hậu; thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng; đã hình thành một số vùng chuyên canh cây trồng chủ lực (cao su, điều, hồ tiêu và cây ăn trái) có giá trị kinh tế cao; nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ; hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị gắn sản xuất với sơ chế, bảo quản sau thu hoạch, chế biến và thị trường; phong trào xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào sâu rộng, với sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị và toàn dân, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn không ngừng được cải thiện, tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh, số hộ khá và giàu tăng; diện mạo nông thôn trên địa bàn tỉnh có sự thay đổi rõ rệt; niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta ngày càng được củng cố, nâng cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn này tăng trưởng chậm, chưa bền vững so với tiềm năng, lợi thế của tỉnh, một số chỉ tiêu chưa đạt so với mục tiêu đề ra. Giá trị sản xuất nông nghiệp chưa cao; ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật chưa nhiều; các tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp (tổ hợp tác, hợp tác xã, doanh nghiệp) chủ yếu vẫn dựa vào lợi thế đất đai, khí hậu, thổ nhưỡng, lao động giản đơn, diện tích, quy mô nhỏ và vừa, doanh nghiệp chủ yếu chế biến thô, đơn giản hoặc tham gia vào các khâu gia công nên giá trị gia tăng chưa cao; vai trò “bà đỡ” cho nông dân của các tổ chức sản xuất còn hạn chế; kinh tế hộ và thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, tỷ lệ cơ giới hóa trong nông nghiệp, chế biến sâu còn thấp; vấn đề ô nhiễm môi trường, an toàn thực phẩm, phát triển bền vững ở khu vực nông thôn còn nhiều bất cập, hạn chế chưa được khắc phục.
Nhằm đẩy mạnh tuyên truyền các nhóm giải pháp chủ yếu trong việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp của tỉnh giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, nông thôn, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh. Trong thời gian tới, cần đẩy mạnh tuyên truyền các nội dung sau:
Một là, Tuyên truyền công tác Quy hoạch tỉnh Bình Phước thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, gắn với việc thực hiện các chủ trương, định hưởng lớn của tỉnh về thực hiện các nhiệm vụ phát triển ngành nông nghiệp thuộc Chương trình hành động số 17-CTr/TU ngày 30/9/2021 của Tỉnh ủy. Xây dựng các chính sách phát triển vùng nguyên liệu các sản phẩm chủ lực, sản phẩm đặc sản của tỉnh, địa phương; chính sách hỗ trợ cơ giới hóa, tự động hóa, khoa học - công nghệ, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư, tích tụ đất đai theo chuỗi, chế biến sâu và xây dựng thương hiệu, thị trường. Thực hiện có hiệu quả, thí điểm chính sách bảo hiểm trong nông nghiệp nhằm hạn chế thấp nhất rủi ra về thiên tai, dịch bệnh, thị trường. Khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; hỗ trợ sản xuất nông nghiệp sạch và chính sách khuyến khích, ưu đãi và hỗ trợ đầu tư trong nông nghiệp và Chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã.
Hai là, Tuyên truyền về công tác nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số, công nghệ thông tin trong toàn bộ các khâu của chuỗi giá trị, kết nối đồng bộ với các ngành, lĩnh vực khác để hình thành nền sản xuất nông nghiệp thông minh, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, lao động, nâng cao giá trị gia tăng, sức cạnh tranh và phát triển bền vững, góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của nông dân, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính, đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ.
Ba là, Tuyên truyền hiệu quả hoạt động của các hình thức tổ chức sản xuất, năng lực và vai trò của các tổ chức hợp tác của nông dân trong việc tổ chức sản xuất theo chuỗi từ cung cấp dịch vụ đầu vào, bảo quản, chế biến nông sản và thị trường. Huy động, khơi dậy nguồn lực, thu hút mọi nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước vào nông nghiệp. Tập trung, ưu tiên nguồn lực xã hội hóa, khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp, hợp tác xã và người dân tham gia, đầu tư nông nghiệp; khuyến khích người dân, doanh nghiệp khởi nghiệp, đầu tư cùng phát triển. Nâng cao chất lượng dự báo giá cả thị trường nông sản, dự báo xu hướng tiêu dùng nông sản của thị trường trong nước và quốc tế; nghiên cứu ban hành các chính sách khuyến khích đầu tư, hỗ trợ các doanh nghiệp tìm kiếm và phát triển thị trường nông sản. Đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, kết nối với chuỗi cung ứng toàn cầu. Đẩy mạnh triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư nông nghiệp trong và ngoài nước. Đồng thời ưu tiên thực hiện có hiệu quả các chủ trương của tỉnh về phát triển thị trường các sản phẩm chủ yếu giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 trong lĩnh vực nông nghiệp. Phát triển doanh nghiệp nông nghiệp, các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị, trong đó doanh nghiệp giữ vai trò là “trụ cột”, nòng cốt, dẫn dắt; đưa khoa học công nghệ, trình độ quản trị và kinh tế số vào chuỗi giá trị.
Bốn là, Tuyên truyền phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn (thủy lợi, điện, đường giao thông) và hạ tầng thương mại, logistic, hệ thống thông tin liên lạc, kho bãi, hệ thống tài chính, hệ thống đào tạo và hệ thống quản lý và pháp luật ở nông thôn ngày càng hiện đại, đảm bảo tăng cường liên kết vùng, đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất nông nghiệp bền vững, hiện đại, với quy mô sản xuất hàng hóa lớn, hội nhập quốc tế và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Năm là, Thúc đẩy phát triển cơ giới hóa nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản phát triển công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ logistic. Đẩy mạnh áp dụng cơ giới hóa đồng bộ ở tất cả các khâu sản xuất, bảo quản, chế biến nông sản, phù hợp với điều kiện từng vùng, từng loại cây trồng, vật nuôi. Phát triển các tổ chức kinh doanh dịch vụ cơ giới hóa nông nghiệp, công nghiệp hỗ trợ và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất hàng hóa lớn trong nông nghiệp. Phát triển công nghiệp chế biến nông sản gắn với phát triển các vùng sản xuất nguyên liệu tập trung được cơ giới hóa đồng bộ, theo nhu cầu và khả năng tiêu thụ của thị trường. Đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ cao thân thiện với môi trường và hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trong bảo quản, chế biến nông sản. Đa dạng hóa sản phẩm chế biến, tăng tỷ trọng chế biến sâu; tăng chế biến từ các phụ phẩm của sản xuất nông nghiệp, tăng giá trị gia tăng.
Sáu là, Triển khai đồng bộ và quyết liệt các giải pháp đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm. Phát triển các vùng trồng trọt và chăn nuôi an toàn dịch bệnh, an toàn sinh học, nhất là ở các vùng sản xuất hàng hóa trọng điểm, vùng sản xuất nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến. Tăng cường hệ thống kiểm soát dịch hại, dịch bệnh xuyên biên giới và sự lan tràn dịch hại, dịch bệnh giữa các vùng miền, địa phương. Khuyến khích cách tiếp cận đa ngành trong phòng trừ, kiểm soát dịch bệnh.
Bảy là, Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, đủ trình độ tiếp cận công nghệ hiện đại để tạo những bước đột phá trong nghiên cứu, chọn, tạo và sản xuất giống, công nghệ di truyền, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Đào tạo nghề cho lao động nông thôn gắn với nhu cầu thị trường, doanh nghiệp, hợp tác xã, đáp ứng yêu cầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông thôn.
Tám là, Tăng cường tuyên truyền năng lực hội nhập quốc tế; khai thác tốt tiềm năng thị trường trong nước, từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết. Tăng cường năng lực nghiên cứu, đẩy mạnh kiểm soát chất lượng theo các tiêu chuẩn quốc tế và khu vực, ứng dụng công nghệ thông tin trong thu thập thông tin, dự báo và phân tích thị trường nông sản trong nước và quốc tế; phát triển mạnh thương mại điện tử trong sản xuất, kinh doanh nông nghiệp. Kết nối thị trường nông sản của Việt Nam với chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu.
Chín là,Tăng cường công tác tuyên truyền vận động, nâng cao ý thức về bảo về môi trường nông thôn. Xây dựng và triển khai chính sách xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường nông thôn, đầu tư các khu xử lý rác thải tập trung, đảm bảo thu gom, vận chuyển và xử lý nước thải, chất thải rắn đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh áp dụng các biện pháp sử dụng tiết kiệm nước và vật tư nông nghiệp, giảm phát thải khí nhà kính; phối hợp quản lý tốt nguồn nước các lưu vực sông và hệ thống thủy lợi bảo đảm quá trình khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, phục vụ có hiệu quả sự phát triển kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài. Nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về lĩnh vực chăn nuôi, thú y, tăng cường kiểm tra, giám sát công tác bảo vệ môi trường tại các cơ sở chăn nuôi, khuyến khích áp dụng giải pháp công nghệ mới công nghệ hiện đại trong chăn nuôi, xử lý môi trường chăn nuôi, tăng cường áp dụng kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh trong sản xuất.
Mười là, Tập trung tuyên truyền về vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ đảng, chính quyền, người đứng đầu các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp; lấy kết quả lãnh đạo, chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu lại ngành nông nghiệp làm thước do mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Xây dựng tổ chức Hội Nông dân vững mạnh, thực sự là tổ chức đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nông dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nông dân; các phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng gia đình văn hoá.
Công tác tuyên truyền cần tiến hành thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm; nội dung tuyên truyền phải cập nhật, gắn với tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Hình thức tuyên truyền cần đa dạng, phù hợp với các cấp, các ngành, các đối tượng, qua đó góp phần thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ trong việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp của tỉnh giai đoạn 2021-2025, định hướng phát triển đến năm 2030, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Phước lần thứ XI và Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.