Sông Bé có chiều dài 350km, bắt nguồn từ vùng đất cao nguyên là tỉnh Đắk Nông rồi chảy về các tỉnh Bình Phước, Bình Dương trước khi nhập vào sông Đồng Nai tại xã Hiếu Liêm (huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai). Nhờ rừng đầu nguồn đang được bảo vệ nghiêm ngặt đã góp phần điều tiết nước cho các hồ chứa nước nhà máy thuỷ điện, tạo ra nguồn thuỷ sản phong phú và nhiều tài nguyên du lịch sinh thái đang được đánh thức.
Một đời sống chết với rừng
Lực lượng kiểm lâm thuộc Ban Quản lý rừng phòng hộ Đắk Mai tuần tra, bảo vệ rừng dọc sông Đắc Huýt, thượng nguồn sông Bé
Sông Bé hình thành từ rất nhiều nhánh sông, suối nhỏ phân bố đều trên lưu vực, từ thượng nguồn, sông hợp lại từ hai nhánh suối lớn là Đắk R’lấp, Đắk Glun và sau khi qua khỏi Thủy điện Thác Mơ chừng 32km, sông Bé gặp nhánh sông Đắk Huýt chạy dọc biên giới Việt Nam – Campuchia tại ngã ba Vàm (xã Thanh Hoà, huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước) rồi nhiều lần đổi hướng trước khi chảy về hạ lưu. Thượng nguồn sông Bé có Vườn Quốc Gia (VQG) Bù Gia Mập với hàng chục ngàn ha rừng đặc dụng đầu nguồn cung cấp nước cho các hồ chứa thủy điện và tạo công ăn, việc làm ổn định cho bà con đồng bào S’tiêng, M’Nông.
Cộng đồng nhận khoán tuần tra, bảo vệ rừng đặc dụng Vườn quốc gia Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước
Chiếc xe bán tải 2 cầu đưa chúng tôi men theo con đường hơn chục km, trong đó nhiều đoạn đất đỏ bụi mù, đồi núi gập ghềnh khó đi, hết dốc cao lại gặp hố sâu mới đến được Chốt liên ngành lưu vực lòng hồ Cần Đơn thuộc Tiểu khu 52, xã Đắk Ơ, huyện Bù Gia Mập được Ban Quản lý rừng phòng hộ Đắk Mai (BQLRPH trực thuộc Sở NN- PTNT tỉnh Bình Phước) quản lý. Chốt được dựng bằng gỗ, lợp tôn nằm ven sông là nơi che mưa, che nắng sau những giờ tuần tra, bảo vệ rừng của các kiểm lâm viên. Sau vài lời chào hỏi, chúng tôi lên ca nô dạo quanh một vòng dọc theo sông Đắk Huýt dài hơn 20km, lòng sông hẹp, quanh co uốn lượn, hai bên bờ cơ man là cây gáo nước, dầu, vàng dè, chiu riu nối tiếp nhau dệt một màu xanh bạt ngàn rồi quay lại chốt.
Kiểm lâm viên Tạ Đình Trung (sinh năm 1967) có 36 năm công tác trong ngành lâm nghiệp cho biết, ông ít về nhà, phần lớn thời gian ở rừng, ăn uống, ngủ nghỉ tại chốt cùng 3 kiểm lâm viên khác để bảo vệ rừng đầu nguồn dọc theo tuyến sông Đắk Huýt. Mỗi tuần, anh em trong chốt phân công nhiệm vụ cụ thể, thay phiên nhau tuần tra, bảo vệ rừng nên nhiều năm nay, không còn tình trạng lâm tặc lợi dụng địa hình phức tạp vùng thượng nguồn để vào rừng chặt cây, săn bắt thú rừng. Cuộc sống quẩn quanh trong rừng, hầu như tách biệt với thế giới bên ngoài, ít người qua lại, sóng điện thoại cũng lúc có lúc không, gạo, nước mắm, muối, bình nước lọc được mua về dự trữ dùng trong một vài tuần, thậm chí cả tháng. Nhờ tình yêu rừng giúp ông và đồng đội vượt qua mọi rào cản, thầm lặng làm tốt nhiệm vụ của “người cận vệ” thuỷ chung bên những cánh rừng già.
Hệ động vật phong phú tại rừng đặc dụng Vườn Quốc Gia Bù Gia Mập
Trở ra Ban QLRPH Đắk Mai, chúng tôi được ông Hoàng Hồng Sơn (sinh năm 1967, đảm trách bộ phận nghiệp vụ của Ban QLRPH Đắk Mai) có 25 năm gắn bó với nghề giữ rừng, chia sẻ, đầu những năm 2000, công việc quản lý, bảo vệ rừng gặp vô vàn khó khăn, các nhóm lâm tặc thường hay vào rừng khai thác gỗ, kéo ra bìa rừng thả gỗ trôi theo dòng sông Đắk Huýt về xuôi để đồng bọn chờ sẵn đưa đi bán. Các đối tượng lâm tặc từ trên Đắk Nông cũng thường xuyên “ghé thăm”, mang theo xe trâu để kéo gỗ, có lần bị lực lượng kiểm lâm chặn bắt, chúng huy động 30-40 tên mang theo mã tấu, dao dựa chống trả quyết liệt, cướp lại “chiến lợi phẩm”. Sự manh động, hung hãn của lâm tặc không làm ông Sơn và đồng đội nao núng mà càng nâng cao cảnh giác, siết chặt kỷ cương, tình đoàn kết quyết tâm truy quét các đối tượng xâm hại rừng.
Ban QLRPH Đắk Mai chú trọng việc tuyên truyền, nâng cao ý thức bảo vệ rừng, cùng các hộ dân ký cam kết không phá rừng nên từng tấc đất, cây rừng không còn bị xâm chiếm, chặt phá. Trong đó, anh Điểu Sa Riu (sinh năm 1984, người đồng bào S’tiêng, xã Bù Gia Mập, huyện Bù Gia Mập) tham gia giữ rừng từ năm 2008, cho biết: “Mình rất vui vì đồng bào dân tộc S’tiêng, M’Nông khi được cán bộ kiểm lâm, bộ đội biên phòng nói cho biết cái phải, cái sai nên không phá rừng nữa. Tôi có đứa con trai cũng yêu rừng như mình vậy, nó thi đậu vào ngành kiểm lâm rồi trở về sát cánh cùng bà con, bộ đội và kiểm lâm giữ rừng”.
Theo ông Nguyễn Tiên Phong, Giám đốc Ban QLRPH Đắk Mai, đơn vị quản lý 20.796,62ha đất lâm nghiệp, trong đó đất rừng phòng hộ 11.313,07ha, phân bố trên 3 xã Đắk Ơ, Bù Gia Mập, Phú Nghĩa, góp phần khôi phục phát triển rừng, bảo tồn các hệ sinh thái, đa dạng sinh học, cung ứng dịch vụ môi trường rừng. Khu vực có đồi dốc hiểm trở, chia cắt bởi nhiều sông, suối, hồ lớn và đồng bào dân tộc có thói quen đốt nương làm rẫy, nhưng không làm lực lượng kiểm lâm nản chí, thay vào đó càng quyết tâm hơn để “bảo vệ rừng tận gốc” trên lâm phần được giao quản lý.
Đi lên nhờ nhận giao khoán, bảo vệ rừng
Chốt kiểm lâm bảo vệ rừng lưu vực lòng hồ Cần Đơn trên sông Đắk Huýt
Theo chân các kiểm lâm viên của VQG Bù Gia Mập, chúng tôi lội sâu vào trong rừng, đang cao điểm mùa khô, nắng nóng gay gắt nhưng không khí thật mát mẻ tạo cảm giác khoan khoái, dễ chịu. Từng vạt rừng nguyên sinh bạt ngàn hiện ra trước mắt với nhiều loại gỗ lớn, có cây cao 30m, vài người ôm không xuể bị dây leo chằng chịt quấn quanh. Hỏi ra mới biết, đây là khu vực có 10 cộng đồng hơn 620 hộ, đa số là người đồng bào dân tộc S’tiêng, M’Nông thuộc xã Đắk Ơ, Bù Gia Mập, huyện Bù Gia Mập và xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông nhận giao khoán quản lý, bảo vệ 19.000ha rừng và nhờ rừng mà cuộc sống của bà con ổn định hơn so với trước đây.
Hơn 7h sáng, từng tia nắng ban mai xuyên qua kẽ lá chiếu rọi xuống cả khu rừng, ông Điểu Tơn (sinh năm 1977, thành viên Tổ nhận khoán bảo vệ rừng thôn Bù Dốt, xã Bù Gia Mập) mang theo một số vật dụng cồng kềnh trên chiếc xe cà tàng vào rừng, hì hục dọn dẹp cành lá, cỏ khô tại đường băng canh lửa. Ông Điểu Tơn cho biết: “Tổ nhận khoán nhà mình có 36 người, mỗi ngày chia thành 3 ca trực, bảo vệ hơn 2.000ha rừng, cứ theo lịch mà làm. Ngoài giờ tuần tra, bà con còn đi nhặt điều, cạo mủ cao su, thu nhập trung bình hơn 10 triệu đồng/tháng nên không lo đói ăn, thiếu gạo”. Nhìn những vạt rừng nguyên sinh xanh tốt đang vươn lên mạnh mẽ, ông Điểu Tơn chia sẻ thêm, rừng cho lộc nuôi sống người S’tiêng nên phải quý trọng rừng, khi tuần tra, kiểm soát, ngoài tuyên truyền, vận động người dân chấp hành nghiêm quy định về bảo vệ rừng, động vật hoang dã, tổ nhiều lần phát hiện bắt giữ các đối tượng vào rừng săn, bẫy bắt thú, phá rừng trái phép giao cho lãnh đạo vườn xử lý.
Ông Điểu Long thuộc cộng đồng nhận khoán, bảo vệ rừng đặc dụng Vườn quốc gia Bù Gia Mập kể về công cuộc giữ rừng
Giữa cái nắng chói chang, ông Điểu Long ( sinh năm 1971, ngụ thôn Đắk Á, xã Bù Gia Mập, huyện Bù Gia Mập thuộc cộng đồng nhận khoán, bảo vệ rừng đặc dụng Vườn quốc gia Bù Gia Mập) vẫn miệt mài tuần tra ở vạt rừng giáp biên giới Campuchia. Lấy chai nước uống cho đỡ khát, ông Long chia sẻ, sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo người đồng bào dân tộc S’tiêng, 15 tuổi phải vào rừng kiếm sống, từ săn bắt thú rừng đến lấy cắp lâm sản rồi chuyển sang phá rừng làm rẫy đều trải qua. Sau nhiều năm làm “lâm tặc”, ông giật mình tỉnh ngộ khi nhìn thấy rừng bị tàn phá, cuộc sống của bà con ngày càng khó khăn và suy nghĩ “mỗi người phá 1 cây, 1.000 người sẽ mất 1.000 cây thì rừng không còn”. Năm 2006, ông Điểu Long xin đi bảo vệ rừng để trả nợ cho rừng, thu nhập bình quân từ 2-2,5 triệu đồng/tháng, mỗi quý nhận một lần từ 8-10 triệu đồng, ông cũng vận động đồng bào S’tiêng từ bỏ tập quán đốt rừng làm nương rẫy, săn bắt thú rừng để không mắc tội với rừng.
Trở ra trụ sở, chúng tôi gặp anh Hoàng Anh Tuân, Phó Giám đốc VQG Bù Gia Mập có mặt ngay từ những ngày đầu thành lập VQG nên biết rõ từng đường mòn, con sông, khe suối quanh vườn, các loài động thực vật trong rừng. Anh Tuân thông tin: VQG có hơn 25.600ha được xem là “lá phổi xanh” của vùng Đông Nam bộ, bảo vệ rừng phòng hộ đầu nguồn cho các hồ chứa nước của các công trình thủy điện Thác Mơ, Sork Phu Miêng, Cần Đơn. Hơn 22 năm qua, cán bộ, nhân viên và lực lượng kiểm lâm của đơn vị đã vượt qua nhiều khó khăn để bảo vệ rừng của VQG, nhờ đó các vụ khai thác lâm sản, săn bắn động vật hoang dã giảm hẳn, đặc biệt từ khi thành lập, vườn không xảy ra vụ phá rừng làm nương rẫy trong lâm phần, chặn đứng tình trạng lấn chiếm đất rừng trái pháp luật, diện tích rừng tự nhiên được bảo vệ nguyên vẹn.
VQG Bù Gia Mập có 1.117 loài thực vật với nhiều cây họ đậu quý hiếm như cẩm lai, gõ đỏ, giáng hương, trầm hương, kim giao, 278 giống cây dùng làm thuốc, động vật có hơn 400 loài, trong đó có 30 loài được ghi trong sách đỏ góp phần bảo tồn đa dạng sinh học, phục vụ nghiên cứu khoa học, giáo dục môi trường, phát triển du lịch sinh thái và đang hoàn thiện hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới thứ 12 của Việt Nam. |